Thứ Năm, 19 tháng 3, 2015

thuốc cai rượu

Rượu uống nhiều, uống hàng ngày sẽ ảnh hưởng không tốt đến não, đến gan, đến dạ dày. Rượu không tốt chút nào đối với con người nhưng lại là thức uống xã giao trong xã hội. Nghiện rượu trở thành căn bệnh phổ biến hiện nay. Muốn cai rươu không phải dễ không phải uống thuốc cai rượu là cai được rượu mà phải có phác đồ điều trị cụ thể.
Nguyên tắc điều trị
+ Cắt cơn cai rượu bằng thuốc an thần và vitamin B1 liều cao.
+ Điều trị chống tái phát bằng disulfiram.
+ Điều trị các rối loạn cơ thể khác (bệnh gan).
Điều trị hội chứng phụ thuộc rượu
Cắt cơn cai rượu
Phác đồ 1: seduxen tiêm bắp ngày 2 ống sáng và tối, dùng từ 5 – 7 ngày.
Phác đồ này đơn giản, dễ thực hiện và cho hiệu quả cao. Thuốc dạng tiêm nên có thể dùng cả cho bệnh nhân ý thức còn sáng sủa, hợp tác điều trị và bệnh nhân đã có rối loạn ý thức, không hợp tác điều trị. Thuốc nên được sử dụng cho bệnh nhân càng sớm càng tốt. Việc dùng thuốc sớm sẽ giúp làm nhẹ bớt hội chứng cai ở bệnh nhân, ngăn chặn sảng rượu xuất hiện. Vì thế, có thể dùng thuốc ngay mà không cần đợi đến khi có kết quả xét nghiệm sinh hóa và huyết học.
Trong các trường hợp bệnh nhân có kích động dữ dội, run và rối loạn ý thức, rối loạn thần kinh thực vật (mồ hôi ra như tắm) nhiều, hoặc bệnh nhân có các cơn co giật kiểu động kinh thì có thể dùng tới 4 ống seduxen/ngày. Các trường hợp bệnh nhân xơ gan hoặc viêm gan nặng vẫn có thể dùng seduxen, tuy nhiên không nên vượt quá 20 mg/ngày.
Phác đồ 2: rivotril 4 viên/ ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Rivotril có hiệu quả điều trị cai rượu rất tốt. Tuy nhiên, thuốc chỉ có dạng uống nên chỉ có thể dùng cho bệnh nhân ý thức còn sáng sủa, hợp tác điều trị và chịu uống thuốc. Vì vậy phác đồ này chỉ dùng cho bệnh nhân chưa có hội chứng cai (chưa ngừng uống rượu), hoặc hội chứng cai nhẹ.
Phác đồ 3: lexomil 4 viên/ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Hiệu quả cai nghiện rượu của lexomil tương đối tốt. Tuy nhiên, cũng như rivotril, thuốc chỉ có dạng viên, chỉ dùng cho các bệnh nhân đến sớm, chưa có hội chứng cai hoặc bệnh nhân có hội chứng cai nhẹ.
Phác đồ 4: carbamazepin 4 viên/ ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Carbamazepin có hiệu quả cai rượu tương đương với benzodiazepin dạng uống (rivotril, lexomil…). Carbamazepin ít được sử dụng trong lâm sàng tâm thần để điều trị cho bệnh nhân nghiện rượu. Lý do là carbamazepin có thể gây dị ứng chậm. Dị ứng thường xuất hiện sau 10 – 15 ngày dùng thuốc nên thường là dị ứng nặng.
Điều trị hoang tưởng, ảo giác trong hội chứng cai rượu
Phác đồ 1: Haloperidol và pipolphen. Trộn lẫn 2 loại thuốc này trong cùng một xi lanh (có thể trộn thêm seduxen), tiêm bắp cho bệnh nhân sáng 1/2 liều, tối 1/2 liều. Dùng thuốc cho đến khi bệnh nhân hết hoang tưởng và ảo giác (thường là 5 – 7 ngày). Haloperidol có tác dụng chữa hoang tưởng và ảo giác do cai rượu, còn pipolphen có tác dụng ngăn ngừa tác dụng ngoại tháp do haloperidol gây ra. Phác đồ này có hiệu quả cao, tin cậy, nhưng haloperidol làm cho bệnh nhân run nhiều hơn, giảm ngưỡng co giật của bệnh nhân. Điều này không đáng ngại vì đã dùng kết hợp với seduxen hoặc các thuốc benzodiazepin khác.
Phác đồ 2: Olanzapin 1 viên/ngày, uống vào buổi tối. Olanzapin có ưu điểm chống loạn thần mạnh, nhưng không gây ra ngoại tháp, vì vậy không cần dùng kèm các thuốc chống ngoại tháp như trihex. Tuy nhiên phác đồ này chỉ áp dụng được cho bệnh nhân chịu uống thuốc.
Sử dụng vitamin B1 trong điều trị hội chứng cai rượu
Người nghiện rượu có tình trạng thiếu vitamin B1 mạn tính. Bệnh nhân có thể có viêm cơ tim cấp, viêm đa dây thần kinh và rất nhiều tổn thương khác do thiếu vitamin B1 gây ra. Trong điều trị hội chứng cai rượu, chúng ta bắt buộc phải cho vitamin B1 liều cao (trên 200 mg/ngày). Một số chế phẩm có chứa vitamin B1 thường dùng:
- Vitamin B1 0,025mg hoặc 0,1mg, tiêm bắp sáng và tối.
- Neurobion tiêm bắp sáng và tối. Đây là thuốc có chứa vitamin B1, vitamin B6, vitamin B12 do đó rất thuận lợi cho điều trị hội chứng cai rượu.
- Ancopir tiêm bắp sáng, tối. Thuốc này cũng chứa vitamin B1, vitamin B6 và vitamin B12 như neurobion.
- Vitamin B1, vitamin 3B, ancopir, neurobion… đều có dạng viên.
Bù nước và điện giải cho bệnh nhân có hội chứng cai rượu
Ringer lactat truyền tĩnh mạch chậm hoặc natri clorua 0,9% cũng truyền tĩnh mạch chậm.
Khi đã có xét nghiệm đường huyết cho thấy glucoza máu của bệnh nhân không cao thì ta có thể cho thêm các dung dịch huyết thanh ngọt như dextrose, glucoza. Tuy nhiên chỉ nên cho huyết thanh ngọt đẳng trương (dextrose 5%, glucoza 5%).
Dự phòng tái phát nghiện rượu
Để dự phòng tái nghiện, bệnh nhân phải được điều trị bằng thuốc kháng rượu. Nếu sử dụng đúng chỉ định và đủ thời gian, tỷ lệ thành công có thể lên tới 90%.
- Disulfiram (esperal) là thuốc hiệu quả nhất. Nếu bệnh nhân uống rượu khi đang dùng thuốc thì sẽ có rất nhiều triệu chứng khó chịu như đau đầu dữ dội, chóng mặt, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực dữ dội, hoảng sợ vô cùng mạnh mẽ, sợ chết… Hiện tượng này lặp đi, lặp lại khi bệnh nhân uống rượu, từ đó khiến bệnh nhân hình thành phản xạ sợ rượu.
Cách dùng: Disulfiram uống mỗi sáng 1/2 viên. Thời gian uống thuốc tối thiểu là 24 tháng. Chỉ được dùng disulfiram khi đã ngừng rượu tuyệt đối ít nhất 24 giờ.
Có thể thay thế disulfiram bằng metronidazol. Cách dùng như sau:
- Metronidazol sáng 2 – 3 viên, tối 2 – 3 viên. Thời gian dùng thuốc 18 – 24 tháng. Hiệu quả của metronidazol chỉ là 60 – 70% số trường hợp. Nhiều bệnh nhân uống metronidazol nhưng vẫn có thể uống rượu được.
- Naltrexon là thuốc kháng opioid, dùng để điều trị củng cố cho bệnh nhân nghiện ma túy nhóm opioid như morphin, heroin… Thuốc cho kết quả tốt trong điều trị chống tái nghiện rượu. Cách dùng: Naltrexone (natrex, revia) 1 viên/ngày, uống buổi sáng.
Thời gian uống thuốc để điều trị chống tái nghiện rượu là trên 2 năm (chống tái nghiện ma túy là trên 6 năm).

Nói chung, để điều trị chống tái nghiện rượu thành công, phải được bảo đảm bệnh nhân uống thuốc thực sự. Người nhà bệnh nhân (bố, mẹ hoặc vợ) phải trực tiếp cho bệnh nhân uống thuốc hàng ngày.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét