Rượu uống nhiều, uống hàng ngày sẽ ảnh hưởng không tốt đến não, đến gan, đến dạ dày. Rượu không tốt chút nào đối với con người nhưng lại là thức uống xã giao trong xã hội. Nghiện rượu trở thành căn bệnh phổ biến hiện nay. Muốn cai rươu không phải dễ không phải uống thuốc cai rượu là cai được rượu mà phải có phác đồ điều trị cụ thể.
Nguyên
tắc điều trị
+
Cắt cơn cai rượu bằng thuốc an thần và vitamin B1 liều cao.
+
Điều trị chống tái phát bằng disulfiram.
+
Điều trị các rối loạn cơ thể khác (bệnh gan).
Điều
trị hội chứng phụ thuộc rượu
Cắt
cơn cai rượu
Phác
đồ 1: seduxen tiêm bắp ngày 2
ống sáng và tối, dùng từ 5 – 7 ngày.
Phác
đồ này đơn giản, dễ thực hiện và cho hiệu quả cao. Thuốc dạng tiêm nên có thể
dùng cả cho bệnh nhân ý thức còn sáng sủa, hợp tác điều trị và bệnh nhân đã có
rối loạn ý thức, không hợp tác điều trị. Thuốc nên được sử dụng cho bệnh nhân
càng sớm càng tốt. Việc dùng thuốc sớm sẽ giúp làm nhẹ bớt hội chứng cai ở bệnh
nhân, ngăn chặn sảng rượu xuất hiện. Vì thế, có thể dùng thuốc ngay mà không cần
đợi đến khi có kết quả xét nghiệm sinh hóa và huyết học.
Trong
các trường hợp bệnh nhân có kích động dữ dội, run và rối loạn ý thức, rối loạn
thần kinh thực vật (mồ hôi ra như tắm) nhiều, hoặc bệnh nhân có các cơn co giật
kiểu động kinh thì có thể dùng tới 4 ống seduxen/ngày. Các trường hợp bệnh nhân
xơ gan hoặc viêm gan nặng vẫn có thể dùng seduxen, tuy nhiên không nên vượt quá
20 mg/ngày.
Phác
đồ 2: rivotril 4 viên/ ngày:
uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Rivotril có hiệu quả điều trị cai
rượu rất tốt. Tuy nhiên, thuốc chỉ có dạng uống nên chỉ có thể dùng cho bệnh
nhân ý thức còn sáng sủa, hợp tác điều trị và chịu uống thuốc. Vì vậy phác đồ
này chỉ dùng cho bệnh nhân chưa có hội chứng cai (chưa ngừng uống rượu), hoặc
hội chứng cai nhẹ.
Phác
đồ 3: lexomil 4 viên/ngày:
uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Hiệu quả cai nghiện rượu của
lexomil tương đối tốt. Tuy nhiên, cũng như rivotril, thuốc chỉ có dạng viên, chỉ
dùng cho các bệnh nhân đến sớm, chưa có hội chứng cai hoặc bệnh nhân có hội
chứng cai nhẹ.
Phác
đồ 4: carbamazepin 4 viên/ ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 –
7 ngày. Carbamazepin có hiệu quả cai rượu tương đương với benzodiazepin dạng
uống (rivotril, lexomil…). Carbamazepin ít được sử dụng trong lâm sàng tâm thần
để điều trị cho bệnh nhân nghiện rượu. Lý do là carbamazepin có thể gây dị ứng
chậm. Dị ứng thường xuất hiện sau 10 – 15 ngày dùng thuốc nên thường là dị ứng
nặng.
Điều
trị hoang tưởng, ảo giác trong hội chứng cai rượu
Phác
đồ 1: Haloperidol và
pipolphen. Trộn lẫn 2 loại thuốc này trong cùng một xi lanh (có thể trộn thêm
seduxen), tiêm bắp cho bệnh nhân sáng 1/2 liều, tối 1/2 liều. Dùng thuốc cho đến
khi bệnh nhân hết hoang tưởng và ảo giác (thường là 5 – 7 ngày). Haloperidol có
tác dụng chữa hoang tưởng và ảo giác do cai rượu, còn pipolphen có tác dụng ngăn
ngừa tác dụng ngoại tháp do haloperidol gây ra. Phác đồ này có hiệu quả cao, tin
cậy, nhưng haloperidol làm cho bệnh nhân run nhiều hơn, giảm ngưỡng co giật của
bệnh nhân. Điều này không đáng ngại vì đã dùng kết hợp với seduxen hoặc các
thuốc benzodiazepin khác.
Phác
đồ 2: Olanzapin 1 viên/ngày,
uống vào buổi tối. Olanzapin có ưu điểm chống loạn thần mạnh, nhưng không gây ra
ngoại tháp, vì vậy không cần dùng kèm các thuốc chống ngoại tháp như trihex. Tuy
nhiên phác đồ này chỉ áp dụng được cho bệnh nhân chịu uống thuốc.
Sử
dụng vitamin B1 trong điều trị hội chứng cai rượu
Người
nghiện rượu có tình trạng thiếu vitamin B1 mạn tính. Bệnh nhân có thể có viêm cơ
tim cấp, viêm đa dây thần kinh và rất nhiều tổn thương khác do thiếu vitamin B1
gây ra. Trong điều trị hội chứng cai rượu, chúng ta bắt buộc phải cho vitamin B1
liều cao (trên 200 mg/ngày). Một số chế phẩm có chứa vitamin B1 thường dùng:
-
Vitamin B1 0,025mg hoặc 0,1mg, tiêm bắp sáng và tối.
-
Neurobion tiêm bắp sáng và tối. Đây là thuốc có chứa vitamin B1, vitamin B6,
vitamin B12 do đó rất thuận lợi cho điều trị hội chứng cai rượu.
-
Ancopir tiêm bắp sáng, tối. Thuốc này cũng chứa vitamin B1, vitamin B6 và
vitamin B12 như neurobion.
-
Vitamin B1, vitamin 3B, ancopir, neurobion… đều có dạng viên.
Bù
nước và điện giải cho bệnh nhân có hội chứng cai rượu
Ringer
lactat truyền tĩnh mạch chậm hoặc natri clorua 0,9% cũng truyền tĩnh mạch
chậm.
Khi
đã có xét nghiệm đường huyết cho thấy glucoza máu của bệnh nhân không cao thì ta
có thể cho thêm các dung dịch huyết thanh ngọt như dextrose, glucoza. Tuy nhiên
chỉ nên cho huyết thanh ngọt đẳng trương (dextrose 5%, glucoza 5%).
Dự
phòng tái phát nghiện rượu
Để
dự phòng tái nghiện, bệnh nhân phải được điều trị bằng thuốc kháng rượu. Nếu sử
dụng đúng chỉ định và đủ thời gian, tỷ lệ thành công có thể lên tới 90%.
-
Disulfiram (esperal) là thuốc hiệu quả nhất. Nếu bệnh nhân uống rượu khi đang
dùng thuốc thì sẽ có rất nhiều triệu chứng khó chịu như đau đầu dữ dội, chóng
mặt, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực dữ dội, hoảng sợ vô cùng mạnh mẽ, sợ chết…
Hiện tượng này lặp đi, lặp lại khi bệnh nhân uống rượu, từ đó khiến bệnh nhân
hình thành phản xạ sợ rượu.
Cách
dùng: Disulfiram uống mỗi sáng 1/2 viên. Thời gian uống thuốc tối thiểu là 24
tháng. Chỉ được dùng disulfiram khi đã ngừng rượu tuyệt đối ít nhất 24 giờ.
Có
thể thay thế disulfiram bằng metronidazol. Cách dùng như sau:
-
Metronidazol sáng 2 – 3 viên, tối 2 – 3 viên. Thời gian dùng thuốc 18 – 24
tháng. Hiệu quả của metronidazol chỉ là 60 – 70% số trường hợp. Nhiều bệnh nhân
uống metronidazol nhưng vẫn có thể uống rượu được.
-
Naltrexon là thuốc kháng opioid, dùng để điều trị củng cố cho bệnh nhân nghiện
ma túy nhóm opioid như morphin, heroin… Thuốc cho kết quả tốt trong điều trị
chống tái nghiện rượu. Cách dùng: Naltrexone (natrex, revia) 1 viên/ngày, uống
buổi sáng.
Thời
gian uống thuốc để điều trị chống tái nghiện rượu là trên 2 năm (chống tái
nghiện ma túy là trên 6 năm).
Nói
chung, để điều trị chống tái nghiện rượu thành công, phải được bảo đảm bệnh nhân
uống thuốc thực sự. Người nhà bệnh nhân (bố, mẹ hoặc vợ) phải trực tiếp cho bệnh
nhân uống thuốc hàng ngày.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét